02:46 EDT Thứ bảy, 27/07/2024

Menu

Bản đồ Việt Nam

Album ảnh

Thống kê truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 2


Hôm nayHôm nay : 38

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 1365

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 110374

Nghiên cứu, tư vấn

ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM

Thứ sáu - 28/07/2023 23:33
NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC CỦA ĐÌNH LÀNG TRONG LÒNG DÂN TỘC VIỆT NAM
Dù từ nguồn gốc nào, thì đình làng cũng là công trình kiến trúc cổ truyền tại các làng quê Việt Nam; là nơi thờ thành hoàng, nơi chức sắc của làng tề tựu để giải quyết việc làng, việc nước, và cũng là nơi hội họp của dân làng.
Nhằm tạo điều kiện cho dân làng, thanh thiếu niên, và du khách có thể đọc và thấu hiểu các các ý tưởng cao đẹp, phúc đức và tâm huyết của tiền nhân lưu lại cho hậu thế, những ngôi đình lang đang được trùng tu hoặc xây mới ngày nay nên ghi thêm chữ quốc ngữ Việt trên hoành phi, liễn đối, cổng đình; đây cũng là góp phần quan trọng cho bảo tồn, phát triển phong tục tập quán tốt đẹp của văn hóa nước nhà.
TS. BÙI SÔNG THU
Hình 1:

Đình BÌNH TIÊN, tỉnh Bến Tre.
 
Thủy tổ của người Việt chúng ta đã thờ cúng các vị thần được tưởng tượng ra từ thiên nhiên như thần sông, núi, sấm, sét, lửa, nước, mưa, gió,…. Họ thờ cúng thần ở những nơi nào xuất hiện các hiện tượng thiên nhiên, như nơi bị bão lũ, sạt lở núi đồi, sét đánh, hỏa hoạn, hạn hán, để cầu nguyện cho tai qua, nạn khỏi, mưa thuận gió hòa, và cuộc sống bình yên.
Theo dòng thời gian và không gian, dân tộc Việt phát triển từ bộ tộc, bộ lạc trở nên xóm ấp, làng xã, thị trấn, thị xã, đến thành phố phồn hoa đô hội. Từ thời vua các Hùng Vương dựng nước cổ xưa, kéo dài về sau với các triểu đại vua: Đinh (968-979), tiền Lê (980-1009), Lý (1010-1225), Trần (1225-1400), hậu Lê (1428-1527), Tây Sơn (1778-1802), và nhà Nguyễn (1802-1945); trải qua những cuộc chiến tranh giữ nước, đứng lên khởi nghĩa thời bị nô lệ, những cuộc phân chia tranh giành quyền lực, thời đại phát triển mở mang đất nước về phương Nam, cho đến trước và trong thời đại nhà Nguyễn (1802-1945), làng xã Việt Nam đã có được ngôi đình làng hoàn chỉnh với những chức năng phù hợp.
Đình làng có thể phát khởi từ việc thờ phụng các vị thần trong thiên nhiên, hoặc thờ người có công với nước với dân, hoặc hành cung của vua đi tuần thú, hoặc vua cho dựng lên để tuyên đọc các văn kiện của vua; hoặc từ lòng yêu nước, bảo vệ cộng đồng và dân tộc dâng cao, dẫn đến việc xây dựng đình làng.
Dù từ nguồn gốc nào thì đình làng cũng là công trình kiến trúc cổ truyền tại các làng quê Việt Nam; là nơi thờ thành hoàng, nơi chức sắc của làng tề tựu để giải quyết việc làng việc nước, và cũng là nơi hội họp của dân làng.
Chức sắc giải quyết các việc làng, như tranh chấp, phạt vạ, thu tô thuế, khao thưởng, phu đinh, lính tráng. Phân tích sâu rộng ra, ta thấy đình làng có 3 chức năng là tín ngưỡng, hành chính, và văn hóa; và từ đó làng có lệ làng, hương ước.
Đình làng gắn bó với tâm hồn con dân nước Việt, là trung tâm sinh họat văn hóa của cộng đồng dân làng, là nền tảng cơ bản sản sinh văn hóa Việt; lưu giữ, bảo tồn, và phát huy bản sắc văn hóa Việt trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt, từ cổ sơ cho đến tận ngày nay.
Đình làng được dựng lên ở nơi thoáng đãng, cao ráo, có thể ở đầu làng, giữa làng. Đình có 3 gian, 2 chái, được xây bằng tường gạch, cột, rui, mè được làm bằng gỗ tốt. Trước đình có giếng, có ao sen là nơi tụ thủy, có cây cao to, cổ thụ che mát sân đình. Sân đình là nền đất, hoặc được lót gạch, rộng rãi để tổ chức lễ hội, tạo môi trường thuận lợi cho dân làng tập trung sinh hoạt vui chơi, trong ngày Lễ Hội, kể cả Lễ Tết. 
Trước sân đình là bức bình phong, được trang trí hình con vật linh thiêng như rồng, kỳ lân, nghê, phượng; trước cổng vào là hai trụ biểu cao, trên đó cũng tạc hình các con vật linh thiêng hoặc các câu đối.
Trong đình có nhiều bàn thờ vọng. Gian chính điện giữa, trong cùng là Điện thờ Thành hoàng bổn thổ, sắc phong vua ban cũng được thờ nơi gian chính điện giữa, đặt trên cỗ thờ trang trọng; cặp hạc lớn cao hơn đầu người được đặt đứng trước trước gian chính điện giữa. Hai bên gian trước có đặt chiêng và trống. Trên những trụ cột chính của đình có treo nhiều hoành phi, liễn đối, và trên vách có tranh chạm khắc. Phần nhiều hoành phi, liễn đối ở các đình làng cổ xưa được ghi chữ Hán, hoặc Hán Việt.
Trước đây đình được kiến trúc theo kiểu 3 gian, 2 chái; song sang thế kỷ 17 gian giữa được kéo dài ra sau, và thế kỷ 18 có thêm tòa tiền tế ở phía trước. Như vậy vào thế kỷ 16-18, đình làng được xây dựng, kiến trúc vững chãi, hoàn thiện, trở thành biểu tượng văn hóa đặc sắc của đình làng xã Việt Nam.
Thành hoàng bổn cảnh là người có công với nước, với dân đã qua đời, được nhà vua ban sắc phong phúc thần, cho dân làng thờ phụng, và được dân làng biết ơn, tin tưởng và phụng cúng nhằm mong được thành hoàng phù hộ cho làng, cho dân.
Có ba hạng bậc phúc thần là Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần, và Hạ đẳng thần, căn cứ vào công sức của các ngài đã đóng góp cho nước cho dân.
Thượng đẳng thần là những vị anh hùng dân tộc, những ngài có công lao to lớn với nước với dân như Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Dương Diên Nghệ, Tản Viên Sơn thánh, Triệu Quang Phục, Trần Hưng Đạo, Bùi Tá Hán.
Trung đẳng thần là những ngài có công lao với nước với dân ít hơn các ngài Thượng đẳng thần, được kể như Bát Tràng, Phù Lãng, và những ngài do dân đã thờ từ lâu như Cao Lịch, Cao Khiển là Lịch lộ đại vương Trung đẳng thần, Hành khiển đại vương Trung đẳng thần.
 Hạ đẳng thần được dân làng thờ phụng, công lao ít hơn hai bậc trên, và Triều đình phong theo nguyện vọng của dân làng.
Triều nhà Nguyễn rất coi trọng hiệu quả của đình làng, nên cứ 3 năm một lần, vua cho xét ban sắc phong phúc thần cho đình làng; cụ thể năm 1.852, vua Tự Đức đã sắc phong “Thành hoàng bổn cảnh” cho 13.069 đình làng trong cả nước, điều này góp phần ổn định công việc khai hoang lập ấp trên vùng đất mới, ghi dấu ấn lịch sử.
Hình 2  
                  Đình TÂN AN HỘI, TP.HCM.
Mỗi năm đình làng có hai lần Lễ Hội lớn là Lễ Hội Kỳ Yên Thượng điền và Kỳ Yên Hạ điền. Trong phần Lễ, có tục tắm tượng thần hoặc thần vị, mặc áo đội mũ, và rước thần vòng quanh làng, đại tế. Ngày đầu, làng cúng Túc Yết, ngày sau là Chánh Tế; và phần Hội có các mục như hát bội, sắc bùa, cải lương, trò chơi chọi gà, thả vịt, kéo co, đấu vật, v.v.
Lễ Hội là dịp cho dân làng tỏ lòng tôn kính, biết ơn công lao các bậc tiền nhân hy sinh cho sự tồn tại, phát triển của dân tộc, giống nòi; đồng thời truyền cảm hứng tinh thần yêu nước, và xin phúc thần phù hộ cho dân làng yên bình, an lạc, và cuộc sống ổn định.
 
Hình 3:

Đình BÌNH LỢI TRUNG, TP.HCM
Thần Nông đươc dân tin đây là vị thần dạy dân cấy cày, trông coi lúa gạo, giúp mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu nên được làng thờ vọng ở đình làng. Bệ thờ Thần Nông được dựng vững chắc trên phía trước sân đình, không dựng mái che. Trên bệ thờ có ghi hai từ “Thần Nông; và đình làng cúng Thần Nông trong Lễ Hội cúng đình.
Triều đình nhà Nguyễn rất trọng Thần Nông, quy định Lễ cúng Thần Nông là Lễ Hội truyền thống dân tộc, thể hiện nền văn minh lúa nước của người Việt, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nên vua Triều nhà Nguyễn (1802-1806) đã cho xây dựng Đàn Nam Giao, phía Nam thành nội Huế, lập Đàn Xã tắc tế trời, và cứ hai năm một lần làm Lễ Hội vào tháng 2 và tháng 8 âm lịch. Trong Lễ Hội có cảnh “Cày tịch điền”, theo đó vua xuống ruộng cày 3 đường cày, hoàng tử và hoàng thân cày 5 đường cày, văn võ đại thần cày 9 đường cày.
Nhằm tạo điều kiện cho dân làng, thanh thiếu niên, và du khách có thể đọc và hiểu các ý tưởng tốt đẹp, phúc đức, và tâm huyết của tiền nhân lưu lại cho hậu thế ngày nay, những ngôi đình làng đang được trùng tu, xây mới sau này nên ghi thêm chữ quốc ngữ Việt trên hoành phi, liễn đối, cổng đình; đây cũng là việc góp phần quan trọng cho việc bảo tồn, phát triển phong tục tập quán, văn hóa nước nhà.
 
Nhân dịp, tôi suy nghĩ và phụng cúng đình làng hai câu thơ; ý của hai câu thơ nầy cộng hưởng với nhau, có thể tạc vào liễn đối ở các cột đình, hoặc hai trụ biểu, hoặc hai trụ cổng chính vào đình. Hai câu thơ như sau:
Tổ quốc ấp ôm hồn tử sĩ
Đình làng bảo bọc cõi sinh linh
Câu 1 (câu đầu): TỔ QUỐC ẤP ÔM HỒN TỬ SĨ.
Ý của câu thơ nầy nói đến tầm vĩ mô.
Ở tầm vĩ mô là toàn quốc, là rộng lớn, là toàn dân. Tổ quốc ghi nhớ công ơn của Tử sĩ cả nước, là những người con dân Việt từ xưa đến nay, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, đã hy sinh cho sự tồn vong và phát triển của dân tộc, của đất nước.
Câu 2 (câu sau): ĐÌNH LÀNG BẢO BỌC CÕI SINH LINH.
Ý của câu nầy nói đến tầm vi mô là là nhỏ hẹp, là làng xã, là dân làng. Đình làng bàn bạc cùng nhau chăm lo cho cuộc sống, ấm no của dân làng. Sinh linh là những con người đang còn sinh sống, đang học tập, làm việc và lớn lên trong phạm vi làng xã.
TS. BÙI SÔNG THU- VIỆN TRƯỞNG Viện khoa học quản trị Phương Nam.
**********
Trở về

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn